Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ Tháng 3, 2011

Visitors (statistics)

Liên hệ giữa cỡ mẫu và cỡ quần thể

Bài viết trích từ Statistics.vn Liên hệ giữa cỡ mẫu và cỡ quần thể Một thắc mắc được một bạn ở blog ytcchue.blogspot.com gởi cho chúng tôi, nguyên văn như sau: "Ở nghiên cứu mô tả cắt ngang một tỷ lệ với với phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn (Là phương pháp chọn mẫu trong đó các cá thể được chọn như nhau vào mẫu nghiên cứu) .Phiền các anh/chị/đồng nghiệp làm rõ Mối liên hệ nào giữa số đơn vị mẫu nghiên cứu và số đơn vị trong quần thể?- trích từ ytecongcong.com" Trước hết xin cảm ơn các bạn đã gởi thắc mắc. Chúng tôi xin trả lời như sau Thông thường các nghiên cứu đều nghiên cứu trên quần thể vô hạn hoặc được cho là vô hạn. Ví dụ nghiên cứu tác dụng của một loại thuốc đối với việc hạ huyết áp thì chắc chắn là ta muốn nói đến một quần thể vô hạn người bị cao huyết áp. Hoặc, một quần thể hữu hạn nhưng với số lượng quá lớn, cỡ mẫu chọn ra từ đó có tương quan rất nhỏ so với quần thể thì quần thể cũng được coi là vô hạn. Ví dụ nghiên cứu chiều cao của

Health information - Who making it ? it really ipmortant now in health system in Viet Nam

Hiện tại, mình đang tham gia hội thảo về hệ thông thông tin y tế của Việt Nam do Đại học Y tế công cộng Hà Nội kết hợp với vụ y tế và sự hỗ trợ của đại học Queenland Úc . Một thực tế đáng lo ngại ở Việt Nam đó là sự thiếu hiệu quả cũng như độ tin cậy từ các nguồn thông tin y tế. Hẳn các bạn đều đồng ý với tôi là thông tin y tế rất quan trong cho công tác quản lý , đưa ra các chính sách , chiến lược cho hệ thông chăm sóc sức khỏe cũng như công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo ... Để tiến tới mục tiêu năm 2015 tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân và Bộ y tế đang chuẩn bị xây dựng lại mã code cho các loại bệnh tật dựa trên bảng mã ICD 10 kết hợp với bảng mã ICD9 CM ( bảng mã phẩu thuật và thủ thuật ) để đưa ra mức DRG ( thực sự tôi cũng chưa hiểu rõ DRG ngay cả một số ngưởi trong vụ y tế cũng chưa hiểu hết vấn đề này : tạm hiểu là mức chi tra theo ca bệnh ). Tuy nhiên một vấn đề lớn hiện nay ở Việt Nam đó là ai sẻ là người làm công việc nhập các bệnh theo các mã vào máy tính tại các bệnh vi

Tìm y văn qua PubMed

Y học thực chứng được định nghĩa là một phương pháp thực hành y khoa bằng cách sử dụng bằng chứng hiện hành một cách có ý thức và công minh kết hợp với kĩ năng lâm sàng để đi đến quyết định về chăm sóc bệnh nhân (1).  Y học thực chứng được thực hành qua 5 bước chính (2): Đặt câu hỏi lâm sàng thực tế, có thể trả lời được; Tìm bằng chứng y khoa liên quan đến câu hỏi lâm sàng; Đánh giá bằng chứng khoa học; Ứng dụng bằng chứng vào bệnh nhân; và Đánh giá hiệu quả của thực hành y học thực chứng. Một thành tố quan trọng trong định nghĩa cũng như thực hành y học thực chứng là chứng cứ khoa học.  Lượng thông tin y khoa tiếp tục gia tăng theo cấp số nhân (3).  Theo thống kê hiện hành, cứ mỗi 5 năm thì lượng thông tin liên quan đến ngành y sinh học lại tăng gấp đôi.  Trước lượng thông tin khổng lồ và gia tăng nhanh, việc cập nhật hóa với những tiến bộ mới nhất trong ngành là một thách thức của người thầy thuốc lâm sàng và nghiên cứu y khoa.  Ngày nay, bệnh nhân cũng thường sử dụng mạng đ